(QBĐT) - Thảm họa môi trường do Formosa xả thải độc đã gây ảnh hưởng lớn đến đời sống, sản xuất của ngư dân các tỉnh miền Trung, trong đó tỉnh ta chịu thiệt hại hết sức nặng nề. Ngoài việc yêu cầu Formosa bồi thường thiệt hại và khắc phục sự cố môi trường thì vấn đề tìm giải pháp ổn định cuộc sống lâu dài cho ngư dân được xác định là nhiệm vụ bức thiết nhất hiện nay. Song ở mỗi địa phương có một đặc thù riêng, vì vậy việc chuyển đổi nghề cũng đòi hỏi phải phù hợp điều kiện thực tế ở mỗi vùng.
Kịp thời hỗ trợ ngư dân...
Sự cố môi trường biển đã khiến hơn 5.400 tàu cá, trong đó có 3.100 tàu cá (công suất dưới 90CV) khai thác gần bờ, số lao động trực tiếp trên các tàu trên 15.000 người, trên 60.000 người tham gia dịch vụ hậu cần nghề cá, nuôi trồng thủy sản lâm vào cảnh thất nghiệp và gần 290 cơ sở lưu trú đã “vườn không nhà trống” ngay trong mùa du lịch... Tổng thiệt hại ước tính đến hết năm 2016 là trên 4.000 tỷ đồng.
Trước những ảnh hưởng nặng nề đó, đã có nhiều chính sách hỗ trợ ban đầu cho bà con để vượt qua khó khăn do không thể ra khơi cũng như sản xuất, kinh doanh các dịch vụ hậu cần nghề cá. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 772/QĐ-TTg ngày 9-5-2016 và Quyết định 1138/QĐ-TTg về hỗ trợ khẩn cấp cho người dân tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế bị ảnh hưởng do hiện tượng hải sản chết bất thường.
![]() |
Nhiều tàu thuyền của ngư dân vùng bãi ngang không ra biển, nằm phơi bến. |
Tỉnh cũng đã trích ngân sách cấp 500 tấn gạo cho ngư dân các xã ven biển; ban hành chính sách hỗ trợ 20% giá cho các doanh nghiệp, đại lý, hộ thu mua hải sản đánh bắt xa bờ của tàu trong tỉnh; trích 17,013 tỷ đồng từ nguồn Dự phòng thuộc ngân sách tỉnh năm 2016 để hỗ trợ cho các tàu, thuyền đánh bắt ven bờ và vùng lộng do phải tạm ngừng ra khơi khai thác hải sản... Đặc biệt, với tinh thần “tương thân, tương ái”, đã có nhiều đơn vị, tổ chức từ thiện quyên góp hỗ trợ vật chất cho ngư dân các địa phương. Tuy nhiên, việc hỗ trợ gạo, tiền thì cũng chỉ là giải pháp tạm thời, vơi bớt khó khăn trước mắt cho ngư dân.
Để có các chính sách phát triển sinh kế cho các địa phương ven biển bị ảnh hưởng, mang tính lâu dài, nhằm ổn định tình hình sản xuất, phát triển kinh tế của người dân, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ LĐ-TB và XH, Bộ NN và PTNT kịp thời xây dựng chính sách tạo việc làm, khắc phục môi trường. Trong đó, Bộ NN và PTNT đang tham mưu cho Chính phủ ban hành chính sách chuyển đổi nghề, khôi phục môi trường và tạo việc làm cho ngư dân để họ ổn định đời sống.
Đồng thời, Bộ LĐ-TB và XH cũng có một đề án tổng thể về dạy nghề, việc làm, xuất khẩu lao động, trong đó Bộ sẽ dành ưu tiên cho những huyện ven biển bị ảnh hưởng như chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài tại Hàn Quốc với chỉ tiêu cho 3.500 lao động...
Gian nan chuyển đổi nghề
Có thể nói, việc tìm sinh kế cho người dân vùng biển bị ảnh hưởng sau sự cố cá chết do Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây ra là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp xã hội cũng phải vào cuộc tích cực.
Theo ông Trần Đình Du, Phó Giám đốc Sở NN và PTNT, thời gian tới trên cơ sở đề án và chủ trương chuyển đổi nghề cho ngư dân của các Bộ, ngành đưa ra, tỉnh cũng phải xây dựng các giải pháp cụ thể nhằm ổn định cuộc sống trước mắt và lâu dài cho bà con phù hợp với đặc điểm tự nhiên, xã hội của từng địa phương.
Thực tế hiện nay là nhiều chính sách lâu dài giúp đỡ ngư dân được đề xuất như: đào tạo và tìm kiếm việc làm, ưu tiên xuất khẩu lao động, xem xét việc tiếp cận vốn vay để cải hoán tàu cá đánh bắt trung bờ và xa bờ cho ngư dân... nhưng ngư dân lâu nay vốn gắn liền với biển, nên việc chuyển đổi nghề nghiệp sẽ không hề dễ dàng, đặc biệt là với lao động lớn tuổi.
Hơn 20 năm làm nghề đi biển, đối với ngư dân Lê Quang Chính, ở thôn Bắc Hòa, xã Ngư Thủy Bắc (Lệ Thủy) bám biển là công việc nuôi sống gia đình anh. Tuy nhiên, sau sự cố môi trường biển, anh phải cho thuyền nằm bờ. Gia đình anh giờ tập trung cho nghề chăn nuôi, chủ yếu là nuôi cá nước ngọt. Theo nhiều người dân trong xã, tạm thời nếu không đi biển, họ sẽ ở nhà nuôi con gà, con lợn, nuôi cá, trồng rau...
Không chỉ riêng gia đình anh mà có khoảng gần vài trăm hộ ngư dân trong xã Ngư Thủy Bắc cũng đang lâm vào cảnh thất nghiệp đành phải mưu sinh bằng “nghề phụ” là chăn nuôi để giải quyết khó khăn trước mắt, còn về lâu dài khó có thể bám trụ được nếu chăn nuôi theo kiểu gia đình, quy mô nhỏ.
Theo ông Lê Công Toán, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh, đây chính là cách “biến hóa” để thích nghi với những giai đoạn khó khăn mà không phải nơi nào cũng có được. Những ngư dân ở vùng ven biển bãi ngang như Hải Ninh (Quảng Ninh), các xã Ngư Thủy Bắc, Ngư Thủy Trung và Ngư Thủy Nam (Lệ Thủy) trở thành những người nông dân với những mô hình chăn nuôi gà, thỏ, bò kết hợp trồng trọt và nuôi cá nước ngọt.
Song thực tế là để những “ngư dân” trở thành những “nông dân” thực thụ là vấn đề không dễ. Bởi họ, những ngư dân sinh ra và lớn lên đã gắn liền với nghề biển, nay để làm quen với cuốc đất, trồng rau, chăn nuôi... thì ít nhất cũng cần phải qua đào tạo nghề để được hướng dẫn, bồi dưỡng các bước cơ bản nhất mới sống được với nghề.
![]() |
Sau sự cố môi trường, nhiều ngư dân ở vùng biển chuyển sang nuôi cá nước ngọt. |
Chưa kể đến phải có nhiều giải pháp đồng bộ như: rà soát lại quy hoạch sử dụng đất, nơi nào đất chưa sử dụng thì giao cho dân sản xuất nông nghiệp; xây dựng các mô hình sản xuất theo hướng gia trại, trang trại, áp dụng khoa học, kỹ thuật cao để có hiệu quả; nghiên cứu, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, điện, thủy lợi; hỗ trợ nguồn vốn vay ưu đãi... để phục vụ sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, chuyển đổi nghề nghiệp.
Rõ ràng, cách chuyển đổi đó xem ra chỉ phù hợp với những ngư dân vùng bãi ngang, là những địa phương còn có tiềm năng về đất đai, còn đối với ngư dân các xã, phường đất chật người đông như Cảnh Dương, thôn Xuân Hòa thuộc xã Quảng Xuân (Quảng Trạch), thôn Cồn Sẻ ở xã Quảng Lộc (Ba Đồn), Bảo Ninh (Đồng Hới)... thì việc chuyển đổi làm mô hình nông nghiệp sẽ không khả thi.
Theo ông Nguyễn Văn Khánh, Trưởng phòng Kinh tế thị xã Ba Đồn, thực tế cho thấy, tàu cá của ngư dân hiện tại chủ yếu là tàu có công suất dưới 90CV. Nếu như muốn chuyển đổi đánh bắt xa bờ thì ngư dân phải đầu tư tàu to hơn, tức là phải sửa sang lại tàu thuyền hoặc đầu tư mới 100% với số tiền lên đến gần cả tỷ đồng, thậm chí là 2 - 3 tỷ đồng. Trong khi đó, đối tượng đánh bắt gần bờ cơ bản là những người tuổi cao, sức khỏe yếu, tiềm lực kinh tế khó khăn nên không phải gia đình nào cũng có nguồn vốn để mua sắm tàu to, lắp đặt máy lớn.
“Nếu người dân không có sự hỗ trợ về nguồn vốn, hỗ trợ lãi suất và hỗ trợ những mặt khác.. thì con đường vươn ra biển lớn còn rất nhiều chông gai”, ngư dân Trần Xuân Dục, ở thôn Trung Vũ, xã Cảnh Dương (Quảng Trạch) chia sẻ. Có lẽ trăn trở của anh Dục cũng là trăn trở chung của hàng nghìn ngư dân trong tỉnh đang hành nghề vùng lộng bấy lâu nay.
Nói về giải pháp định hướng xuất khẩu lao động cho ngư dân, ông Lê Thanh Bình, Chủ tịch Hội Nông dân xã Bảo Ninh (Đồng Hới) cho rằng, xuất khẩu lao động không còn mới mẻ đối với ngư dân nhưng không thể áp dụng với tất cả các đối tượng, bởi không phải ai cũng có nhu cầu xuất khẩu lao động.
Đáng lưu ý nữa là xuất khẩu lao động chỉ dành cho đối tượng có tuổi đời khoảng từ 18 đến 40, trong khi đó lực lượng có độ tuổi này chỉ chiếm 1/3 số lao động khai thác gần bờ tại địa phương. Mặt khác, kinh phí cho xuất khẩu lao động cũng khá cao nên ngư dân khó đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng lao động...
Ngọc Lưu
Bài 2: Ngư dân mong muốn tiếp tục bám biển