(QBĐT) - Hiện nay, ngành Nông nghiệp Quảng Bình đã và đang triển khai nhiều mô hình chuyển đổi cây trồng, vật nuôi nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, góp phần tăng thu nhập cho người dân trong bối cảnh đang chịu tác động tiêu cực ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu.
>> Bài 1: Hiểm họa của biến đổi khí hậu
Nhiều mô hình thích ứng
Ông Trần Đình Hiệp, Trưởng phòng Kỹ thuật Nông nghiệp (Sở NN và PTNT) cho biết, để ứng phó với biến đổi khí hậu, thời gian qua Sở NN và PTNT đã đưa ra nhiều giải pháp, chiến lược cụ thể như: Điều chỉnh cơ cấu giống cây trồng kết hợp với bố trí lịch thời vụ hợp lý để luồn lách né tránh những bất lợi của thời tiết (lúa vụ đông-xuân chuyển từ giống dài ngày sang trung ngày, ngắn ngày, đồng thời gieo muộn, tránh rét và ngập úng đầu vụ; lúa hè-thu chuyển từ giống trung ngày sang ngắn và cực ngắn ngày, thu hoạch sớm để tránh bão lụt...).
Chuyển đổi các diện tích trồng lúa không chủ động nước, năng suất, hiệu quả thấp sang gieo trồng các loại cây cần ít nước và có hiệu quả cao hơn. Mặt khác, chú trọng nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng các quy trình thâm canh tiên tiến theo hướng hạn chế sử dụng các tài nguyên thiên nhiên và giảm thiểu sự tác động đối với môi trường sinh thái.
Thực hiện tốt việc khảo nghiệm, tuyển chọn những giống thích ứng biến đổi khí hậu vào sản xuất. Phát huy tốt các công trình thủy lợi; định hướng phát triển nền nông nghiệp xanh, sạch, thân thiện với môi trường....
Từ những giải pháp trên, nhiều mô hình sản xuất thích ứng đã được triển khai, nhân rộng trong toàn tỉnh. Trồng lúa theo phương pháp thâm canh cải tiến (SRI) ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những mô hình bước đầu mang lại hiệu quả cao. Được triển khai từ năm 2012, đến nay mô hình đã nhân rộng với diện tích khoảng 619 ha, thực hiện trên địa bàn các xã thuộc huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Ba Đồn...
Qua đánh giá bước đầu cho thấy, việc áp dụng SRI giảm được khoảng 50-60% lượng giống (từ 7-8 kg/sào theo phương pháp canh tác truyền thống xuống 2,5-4 kg/sào theo phương pháp SRI). Nông dân tham gia mô hình ngoài lượng giống được giảm ở ruộng mô hình SRI qua triển khai vụ thứ 2 thì họ cũng tự giảm lượng giống gieo ở ruộng ngoài mô hình.
Ước tính, nếu áp dụng SRI trên diện rộng (giảm lượng giống gieo 4-5 kg/sào) nông dân tỉnh ta mỗi năm có thể tiết kiệm được khoảng 4.000-5.000 tấn giống.
Về sử dụng nguồn nước, nhờ áp dụng nghiêm ngặt quy trình điều tiết nước khô ướt xen kẽ nên giảm sử dụng nước bình quân ở ruộng SRI từ 40-55% so với canh tác truyền thống. Bên cạnh đó, canh tác theo SRI giảm khoảng 20-30% lượng đạm so với canh tác truyền thống; giảm bình quân 50% chi phí về thuốc bảo vệ thực vật, do canh tác theo SRI cây lúa cứng, khỏe nên có khả năng chống chịu với nhiều loại sâu bệnh gây hại (đặc biệt là bệnh đạo ôn, khô vằn và bệnh bạc lá). Vấn đề giảm phát thải khí nhà kính ở khu vực đồng ruộng áp dụng SRI cũng giảm đáng kể so với canh tác truyền thống 30-35%.
![]() |
Giống ngô biến đổi gen cho năng suất cao. |
Bà Phạm Thị Thanh, thôn Mỹ Lộc Thượng, xã An Thủy (huyện Lệ Thủy) thực hiện canh tác lúa cải tiến SRI khoảng 6 sào, cho biết: “Tôi thấy từ khi thực hiện theo phương pháp này, lúa tốt, năng suất cao hơn so với trước đây, lại tiết kiệm được giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chăm bón lúa dễ dàng và đỡ tốn công”.
Ông Trần Đình Hoàn, Chủ nhiệm HTX Trung Quán, xã Duy Ninh (huyện Quảng Ninh) cũng cho biết, gia đình ông thực hiện gieo cấy lúa theo quy trình SRI diện tích khoảng 3,5 sào; lúa SRI gieo thưa nên cây cây hút được nhiều dinh dưỡng từ đất, cây khỏe, ít đổ ngã, ít sâu bệnh mà năng suất lại cao.
Với chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng để nâng cao giá trị thu nhập và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, Trung tâm Khuyến nông-Khuyến ngư tỉnh cũng đã đưa giống ngô biến đổi gen NK66BT/GT vào sản xuất thử nghiệm tại huyện Tuyên Hóa, Quảng Ninh. Kết quả mô hình đã cho lãi gần 16 triệu đồng/ha, cao hơn trồng đậu xanh khoảng 500.000 đồng/sào, vượt trội về năng suất, hiệu quả kinh tế so với một số giống ngô bản địa khác.
Bên cạnh đó, giống ngô NK66BT/GT có chiều cao đóng bắp trung bình 90-100cm, thời gian sinh trưởng khoảng 85-90 ngày, lá đứng xanh, bộ rễ chân kiềng khỏe mạnh; đồng thời chống đổ, ngã, chịu hạn và ngập úng khá tốt; chống chịu sâu bệnh khỏe;... là ưu điểm để thích ứng với biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, ngành Nông nghiệp tỉnh cũng hướng đến hình thức “chăn nuôi xanh”, nghĩa là tăng cường áp dụng các ứng dụng công nghệ sinh học vào chăn nuôi để vừa giảm thiểu ô nhiễm môi trường, vừa hạn chế được dịch bệnh. Tỉnh đã chú trọng triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trong xử lý chất thải chăn nuôi như: xây dựng các mô hình chăn nuôi an toàn sinh học, xử lý bằng công nghệ khí sinh học biogas, các chế phẩm sinh học, ao sinh học, đệm lót sinh học...
Tiếp sức cho nông dân
Không chỉ triển khai các mô hình thích ứng, Quảng Bình còn có những kế hoạch, chiến lược lâu dài cho công tác ứng phó với biến đổi khí hậu trong nông nghiệp. Theo Chiến lược hợp tác quốc gia Việt Nam-IFAD giai đoạn 2012-2017, Quảng Bình là một trong hai tỉnh đầu tiên tại Việt Nam được IFAD đồng ý cho tiếp nhận vốn trong tương lai để xây dựng Dự án Phát triển nông thôn bền vững vì người nghèo (Dự án SRDP), nhằm hỗ trợ tỉnh thực hiện các giải pháp tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp và hỗ trợ phát triển nông thôn mới theo hướng bền vững.
Bà Lê Thị Vân Hồng, Giám đốc Dự án SRDP cho biết: Mục tiêu chủ yếu của Dự án SRDP tại Quảng Bình là cải thiện thu nhập bền vững và giảm tổn thương cho các hộ nghèo ở nông thôn tại các xã vùng dự án.
Mục tiêu ngắn hạn là đầu tư vào các mô hình phát triển nông thôn có khả năng sinh lợi, công bằng xã hội và thích ứng với biến đổi khí hậu có tác dụng thúc đẩy các mối liên kết thị trường và chuỗi giá trị vì người nghèo và nâng cao khả năng cạnh tranh trong kinh doanh ở nông thôn.
Dự án “Hỗ trợ chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+ ở Việt Nam” do Quỹ đối tác các-bon trong lâm nghiệp (FCPF) Ngân hàng Thế giới tài trợ cũng đã được triển khai tại Quảng Bình.
Mục tiêu của dự án là hỗ trợ nâng cao năng lực tổ chức và kỹ thuật của Ban Chỉ đạo, Văn phòng REDD+ Quảng Bình, một số cơ quan có liên quan nhằm chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+; góp phần thực hiện thành công Chương trình hành động quốc gia về “Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng” giai đoạn 2011-2020 theo Quyết định số 799/QĐ-TTg.
Từ đó, tiếp sức cho tỉnh thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu và thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo nói chung, sự thích ứng với biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp nói riêng, hướng tới phát triển bền vững.
Với mục tiêu thực hiện hài hòa việc phát triển kinh tế bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học, tại VQG Phong Nha-Kẻ Bàng, trước những tác động tiêu cực của con người cùng các biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) cũng triển khai thực hiện Dự án “Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực VQG Phong Nha-Kẻ Bàng”...
Việc hỗ trợ nông dân thực hiện những giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua các dự án, mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng... đang được tỉnh thực hiện ráo riết. Tuy nhiên, tình hình biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, khó lường, trong khi nguồn vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng ở các địa phương vẫn còn thiếu trầm trọng bởi hầu hết đều có số vốn lớn.
Vì thế, hiện tỉnh đang phải lồng ghép nhiều chương trình và sử dụng nguồn vốn tự cân đối được để thực hiện từng bước các dự án, công trình chống biến đổi khí hậu ở địa phương.
Lê Mai