(QBĐT) - Một câu chuyện tưởng nhỏ lại kéo qua hai thế kỷ, với độ dài thời gian gần hai mươi lăm năm...
Thời điểm ấy là vào năm 1993 hay 1994, tôi cùng với nhà nghiên cứu văn hóa Văn Tăng theo đài truyền hình đi làm phim tài liệu về ca trù và hát Kiều ở xã Châu Hóa, huyện Tuyên Hóa. Với tôi, vốn chỉ quen làm thời sự, cái cảnh mấy người phụ nữ nông dân tuổi đã nên bà nên bác mới từ ruộng khoai trở vô, sau mấy phút thay y phục, tay cầm quạt ra giữa sân hay cầm sanh ngồi xuống giữa tấm chiếu hoa, đã lập tức hóa thân thành nghệ nhân hát Kiều hay hát ca trù, thì lạ lắm. Nhưng cả tôi và nhà nghiên cứu văn hóa Văn Tăng đều tò mò lạ lẫm và sau khi tìm hiểu sự thể thì đều "sốc" vì cây đàn đáy trong tay người nhạc công.
Thoạt trông, bầu đàn hình tròn đã là lạ (vì bầu đàn đáy hình hộp chữ nhật) lại nổi rõ chữ Bicos. Hỏi ra mới biết đàn được chế tác thủ công từ việc tận dụng hộp bánh bích quy. Dây đàn mới thật là sản phẩm của sáng tạo. Nguyên, dây phanh xe đạp gồm những sợi thép nhỏ quấn lại, người ta mở ra... thành “những dây đàn”. Vậy mà, trong tay người nhạc công hồn nhiên và say mê, chất lượng “dây vũ dây văn” cũng không đến nỗi nào. Cuối buổi ghi hình, có “tiệc trà” với khoai lang chấm mè. Người nhạc công thủ thỉ với chúng tôi rằng, cách đó chưa lâu có vị lãnh đạo ngành văn hóa đã đến, đã nghe hát, đã thấy “cây đàn đáy bất hủ” này, cũng như chúng tôi, đã hết sức cảm thông với “hoàn cảnh” của giới văn nghệ dân gian, và điều này mới quan trọng: hứa cho đội văn nghệ một cây đàn đáy chính hiệu trong một “tương lai gần”. Tương lai gần là bao lâu, những người nghệ sĩ làng vẫn đang chờ đợi và hy vọng. Nghe câu chuyện cảm động trên đây, chúng tôi cũng nghĩ khi về tỉnh lỵ sẽ nhắc nhở vị lãnh đạo ấy sớm thực hiện lời hứa. Và thực tế, chúng tôi cũng đã nhận được lời đáp chắc chắn từ vị lãnh đạo đáng kính.
Năm tháng trôi qua. Tỉnh nhà, sau thời kỳ đầu tái lập chững lại định hình, bắt đầu có bước phát triển mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Chúng tôi, tình cờ lại là tôi và nhà nghiên cứu văn hóa Văn Tăng, được đài truyền hình rủ đi Châu Hóa quay phim tài liệu về hát Kiều ở lòi Cây Thị. Và tại đây, chúng tôi lại rưng rưng cảm động với những người chân đất, chỉ sau vài mươi phút hóa trang đã trở thành nhân vật trong tác phẩm văn chương bất hủ của Nguyễn Du, được một tác giả ngay tại quê hương Châu Hóa soạn lại thành kịch bản hát Kiều với đầy đủ lớp lang chuẩn mực. Và nữa, lại người nhạc công năm, bảy năm trước ôm cây đàn đáy- Bicos dây phanh xe đạp say sưa đệm đàn. Ông không nhận ra chúng tôi trong lần gặp từ nhiều năm trước, nhưng chúng tôi cảm như có lỗi nên lần này về tỉnh lỵ lại hăng hái nhắc nhở vị lãnh đạo ấy. Và cũng như lần trước, lại được nghe hứa về một tương lai gần của... cây đàn đáy. Châu Hóa cách trung tâm tỉnh lỵ chừng bảy mươi ki-lô-mét, là quãng cách không nhỏ và việc không phải trách nhiệm trực tiếp của mình nên chúng tôi cũng không dành sự quan tâm thường trực. Cho tới một ngày, vị lãnh đạo ấy nghỉ hưu mang theo lời hứa trải gần mười lăm năm về với thú điền viên.
Tháng 10-2009, Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO bảo vệ di sản phi vật thể đã ghi danh ca trù được công nhận là “Di sản Văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại”. Quảng Bình là một trong 16 tỉnh, thành có sự hiện diện của ca trù. Châu Hóa là một trong ba địa phương của Quảng Bình đang có câu lạc bộ ca trù hoạt động (Châu Hóa, Yên Hóa và Đông Dương). Hành trình “thần tốc” cây đàn đáy của tướng Cao Ngọc Oánh từ Hà Nội về Châu Hóa cũng coi như là một động thái “bảo vệ khẩn cấp ca trù” theo tinh thần quyết định của UNESCO năm 2009 vậy. |
Nhưng may, hy vọng lại được thắp lên bởi một nhân vật mới. Vị cán bộ thay thế lại là một người con của Châu Hóa, một cựu sĩ quan quân đội có tác phong rất chân thành dễ tiếp xúc. Và điều quan trọng hơn, ông là bạn đồng tuế với tôi. Một buổi sáng, ông quá bộ đến nhà tôi tâm sự về nghề nghiệp. Trong dịp tốt này, với tình thân mật, tôi đã kể lại tường tận, khiến ông hứa, với cương vị của mình sẽ cầm chịch để cùng chúng tôi vận động ủng hộ đội văn nghệ quê hương một cây đàn đáy lúc này giá thị trường đã tăng lên không nhỏ. Năm năm, một nhiệm kỳ công tác trôi qua. Lại đến lượt vị lãnh đạo về hưu, ý tưởng vận động ủng hộ cây đàn vẫn chưa khởi động. Trong thời gian ấy, cũng có một hai lần tôi mạnh dạn nhắc, nhưng ông, vì bận trăm công nghìn việc, hoặc vì lý do khác mà kế hoạch không thực hiện được...
Hai chúng tôi (là tôi với nhà nghiên cứu văn hóa Văn Tăng) chỉ biết ngậm ngùi than thở với nhau.
Và, một buổi sáng đẹp trời trên tầng ba căn nhà ở phố Đoàn Thị Điểm, nơi đặt trụ sở Hội di sản văn hóa tỉnh, lời than thở bỗng dừng lại giữa chừng vì bỗng nhiên tôi sực nhớ đến một người con của thôn Lâm Lang, Châu Hóa. Tôi nhớ, vì có lần cách đó chưa lâu, trong dịp lên Châu Hóa làm phim về chiếc cầu qua sông Gianh, gặp người làng Lâm Lang khánh thành công trình hậu điện của đình làng. Mới dựng được phần hậu điện thôi mà xem ra người Lâm Lang đã phấn khởi lắm. Tôi thực sự ngạc nhiên thấy ông Cao Ngọc Oánh đã đưa cả gia đình từ thủ đô Hà Nội về, ủng hộ làng một khoản kinh phí kha khá. Sau buổi lễ, cả gia đình ông lại hăng hái cùng dân làng san lấp mặt bằng và đào hố trồng cây trong khuôn viên. Một vị tướng có vị thế cao trong xã hội mà suy nghĩ giản dị, mà nhiệt thành yêu làng đến thế chắc sẽ vui lòng chia sẻ nỗi băn khoăn trong lòng chúng tôi. Và thật may mắn, tôi còn lưu số đi động của ông....
-A lô! Xin lỗi, phải số máy anh Cao Ngọc Oánh không ạ.
-Vâng, tôi đây! Ai đầu dây? Có việc gì không ạ?
Tôi tình bày vắn tắt cái sự tồn đọng của “vấn đề cây đàn đáy” cho đến lúc đó đã kéo dài gần hai mươi năm. Ông Oánh, có lẽ cũng đang bận, cắt ngang:
- Giá cây đàn khoảng bao nhiêu?
Trong một thoáng, tôi làm phép tính lấy một con số áng chừng trả lời ông.
- Chừng ấy thì được, để lát nữa nghỉ trưa tôi ra phố mua gửi về ngay cho bà con.
Tôi bỏ máy nhìn nhà nghiên cứu văn hóa Văn Tăng và nhà thơ Văn Lợi mà sửng sốt: Không ngờ, chuyện tồn đọng gần 20 năm lại được giải quyết trong... hai phút. Từ trước, tôi đã nghe người ta kháo nhau về viên tướng công an đẹp trai, mạnh mẽ và tự tin này rất nặng lòng với quê hương. Bây giờ thì đã “mục sở thị” một nửa. Nói một nửa, vì dù sao cũng mới là lời hẹn. Lời hẹn gần với hiện thực hơn lời hứa nhưng vẫn là... còn chờ xem.
Và, tôi đã không phải chờ lâu. Ba ngày sau, tôi nhận được điện thoại của trung tướng thông báo rằng, đã mua đàn nhưng vì cần đàn dài quá nên không thể gửi ô tô mà phải gửi bằng tàu hỏa và hiện đã về đến Đồng Hới. Trung tướng nhờ tôi mượn xe của Cơ quan Công an tỉnh chuyển gấp cây đàn ra Châu Hóa cho bà con kịp liên hoan văn nghệ chào mừng Tết Độc lập 2-9. Đây thực sự là niềm vinh dự, một phần thưởng cho riêng tôi. Tiếc rằng, đúng lúc ấy tôi lại đang bị ốm nên không có cái hạnh phúc được nhìn thấy gương mặt rạng rỡ của nhạc công và các thành viên trong đội văn nghệ trước món quà bất ngờ và thú vị này.
*
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Mới đó mà đã năm năm trôi qua. Năm năm, tôi cũng chưa một lần trở lại rẻo đất xinh đẹp và ấm áp ven hữu ngạn sông Gianh. Gần đây, nhận được thông tin, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vỹ, sau khi tận lực tham gia vào việc phục chế chùa Hoàng Phúc, đưa hò khoan Lệ Thủy lên tầm di sản phi vật thể Quốc gia, đã bắt đầu “nhòm ngó” đến ca trù và hát Kiều của khu vực “nam Tuyên- bắc Quảng” của Quảng Bình. Trước đó, hò khoan Lệ Thủy đã “đi” quảng bá một vòng từ Phú Yên ra Nghệ Tĩnh, Bắc Ninh, Trường đại học Khoa học xã hội nhân văn rồi "đỗ" lại hò hát ngay bờ hồ Hoàn Kiếm. Tôi mơ có một ngày trong tương lai gần, cây đàn đáy của vị trung tướng, lại có dịp hành trình theo đoàn Câu lạc bộ ca trù- hát Kiều từ Quảng Bình ra kinh đô biểu diễn...
Nguyễn Thế Tường