(QBĐT) - Chiều nay, chủ nhật, tôi sẽ lên đường thực hiện lời hẹn đã kéo dài đúng một phần tư thế kỷ, từ năm đầu của thập niên chín mươi thế kỷ trước: đến thăm nhà của hai người quen tình cờ nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm. Khi nói "quen biết tình cờ” là có ý rằng, họ chưa hẳn đã là bạn nhưng cũng không còn là người xa lạ.
Họ là hai viên sĩ quan công an đã ghi một ấn tượng khó phai mờ trong ký ức với gia đình tôi. Tôi sẽ lên đường lần lượt đến thăm nhà từng người, không mang theo quà cáp gì mà đơn giản chỉ nói chuyện phiếm kèm theo một lời cảm ơn xã giao cần thiết, lời cảm ơn mà suốt hai mươi lăm năm qua tôi đã chuẩn bị sẵn, cứ nghĩ rằng sẽ thổ lộ khi đến thăm nhà họ.
Vâng, chỉ có thể nói trong không khí thư giãn của một chiều chủ nhật đẹp trời, khi ký ức được gợi lại một cách thân mật tự nhiên. Chỉ thế thôi, mà lạ lùng thay, gần một phần tư thế kỷ trôi qua, tôi chưa thực hiện. Trong khi, các bạn có biết quãng đường từ nhà tôi đến nhà hai viên sĩ quan này xa bao nhiêu không!? Đo đếm chính xác thì không thể nhưng ước chừng cũng không xa lắm với cung đường bách bộ.
Phường Đồng Mỹ thuộc thành phố Đồng Hới chúng tôi được thành lập ba năm sau ngày tái lập tỉnh Quảng Bình, tức là vào năm 1992. Địa hình của phường nằm dọc tả ngạn sông Nhật Lệ, chiều dài chừng non cây số. Điểm cuối của phường đã gần tới cửa biển. Bề ngang được tính từ bờ sông ra đến quốc lộ 1 chưa tới năm trăm mét.
Vậy là, diện tích tự nhiên của phường vỏn vẹn không hơn... nửa-li-lô-mét-vuông. Nhà tôi, và nhà của hai nhân vật nhắc tới trên đây cùng nằm trong vùng dân cư này. Vậy mà, để thực hiện một suy nghĩ chợt đến, một lời tự hẹn mang tính hàm ơn xã giao với họ, suốt gần hai mươi lăm năm qua tôi cứ chần chừ, lười biếng.
Vâng, chắc chắn chiều nay tôi sẽ đi, sẽ đến và sẽ gợi lại câu chuyện cách nay đã tròn hai-mươi-lăm-năm.
Mùa hè năm 1989, tỉnh Bình Trị Thiên chia ba, trở về tái lập tỉnh theo địa giới cũ. Quảng Bình trong chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ là một tuyến lửa theo đúng nghĩa đen. Thị xã Đồng Hới sau hai chiến địch “Mũi lao lửa một” và “Mũi lao lửa hai” đầu Xuân Ất Tỵ (1965) của không lực Mỹ cơ bản đã thành đống gạch vụn. Sau “bảy lăm”, ba tỉnh nhập lại, lấy Huế làm tỉnh lỵ. Suốt hai bốn năm, thị xã Đồng Hới bị lãng quên, hoang tàn gạch cũ cỏ dại bời bời.
Mùa hè năm 1989, trong những cơn gió nóng tràn về khô khốc, hơn ba vạn cán bộ công nhân viên và gia đình đổ xuống mảnh đất hoang vài mươi năm trước từng được gọi là đô thị. Khỏi phải kể giới lãnh đạo đã phải cố gắng vội vã đến chừng nào để trong một thời gian rất ngắn có thể quy hoạch gấp rút phân đất cho cán bộ làm nhà ở. Tôi cũng được phân đất, và, bằng rất nhiều cố gắng đến tuyệt vọng, mùa hè năm 1990, đã dũng cảm dựng lên một căn nhà cấp bốn rộng mười tám mét. Mới dựng lên được, mái ngói vừa lợp xong, chưa kịp trét mí trét mạch cho kín đáo thì mùa mưa bão ập đến. Không chờn vờn do dự, cơn bão số một nhằm thẳng địa bàn Đồng Hới lao vào.
Thị xã lúc ấy cơ bản vẫn là một bãi đất bằng, chỉ mới có lác đác vài mươi nóc nhà vội vã dựng lên đã phải quằn quại trong cơn bão, Đêm, không gian tối thui, con người đành phó thác vận rủi may cho số phận. Tôi, một gã đàn ông gần bốn mươi tuổi từng kinh qua những tháng năm khốn khó và hiểm nguy trong chiến tranh cũng không thể làm gì hơn trước tình cảnh quá éo le. Trước khi cả thị xã chìm vào bóng đêm, tôi đã kịp đào một cái hang dưới gầm giường, lót chiếu đưa vợ con xuống trú ẩn với hy vọng nếu gió bão làm nhà sập xuống cũng không gây thiệt mạng.
Càng về khuya gió bão càng mạnh và tâm lý mỗi người tại nơi trú ẩn càng tuyệt vọng. Nghĩ dại, nếu có thảm họa và tiếng kêu cứu vang lên từ đâu đó, chắc mọi người cũng đành chờ trời sáng. Đêm đen và mưa lớn gió dữ đã chia cắt hoàn toàn mối liên hệ giữa con người với con người. Dưới cái hang trú ẩn đào vội, vợ con trông cậy vào tôi mà thằng tôi thì chỉ biết thỉnh thoảng thò cổ ra nhìn vào đêm đen, vô vọng...
Mười hai giờ đêm, có thể hơn kém mươi phút vì chỉ là phỏng đoán theo thói quen của nghề nghiệp hay thức khuya, tôi bỗng có cảm giác như có một đốm sáng lập lòe từ xa tiến lại. Vâng, ánh sáng đang hướng đến nhà tôi là vệt sáng một ngọn đèn pin.
Được ánh sáng khích lệ, tôi bò ra khỏi hang cũng đúng lúc bóng hai người đàn ông trạc ba mươi choàng áo khoác chuyên dụng bước vào nhà. Theo thói quen từ thời quân ngũ, tôi cố ý đứng cách họ vài mét, thủ thế, biết đâu họ là ai giữa đêm hôm bão tố này. Một trong hai người cất tiếng chào thân thiện, tự xưng là cảnh sát khu vực rồi nói thêm:
- Bọn em đến xem anh chị và các cháu có cần gì không!
Ô, một câu nói giản dị đến không ngờ mà lần đầu tiên tôi nghe được và lại đúng vào lúc bí bách hiểm nghèo nhất. Cần gì ư? Có thể cần gì vào lúc này khi mà thiên tai đang ngự trị và con người thì hoàn toàn bị khuất phục! Mãi sau này tôi mới hiểu điều tôi cần nhất lúc đó chính là sự hiện diện của họ, là câu nói tối đơn giản nhưng chứa đầy sức nặng của sự cần thiết củng cố niềm tin. Thấy có ánh sáng và người đến, vợ con tôi cũng chui ra khỏi “hang”, và chắc chắn qua vài câu trao đổi không đầu không cuối với hai người khách không mời ấy, cũng đã phần nào vững tin...
Bây giờ đây, hai mươi lăm năm đã trôi qua, thật khó mà kể lại được chính xác hai viên sĩ quan cảnh sát đã nói gì với gia đình tôi. Chỉ biết rằng, sau khi từ biệt, để, như họ nói là đi thăm những gia đình khác nữa, cả nhà tôi đã lại chui vào hang trú ẩn đánh một giấc dài đến sáng bạch...
*
Cuộc sống muôn màu muôn vẻ đang trôi qua từng ngày thì mặc nhiên mỗi người một việc tùy sở thích hoặc theo sự phân công bắt buộc. Việc hai viên trung úy cảnh sát đến nhà tôi vào đêm mưa bão ấy có thể là nhiệm vụ phải thực thi. Nhưng, cái thời điểm ấy nhạy cảm quá, và câu nói giản dị “chúng em đến xem anh chị và các cháu có cần gì không” nó ấn tượng quá khiến tôi nghĩ rằng, một ngày nào đó trong năm ấy, năm 1990, sẽ đến thăm nhà của họ và nói lời cảm ơn, dù chỉ là cảm ơn xã giao theo phép lịch sự tối thiểu của chủ thể thụ hưởng quyền lợi. Vậy mà, không hiểu sao hai mươi lăm năm qua tôi vẫn chưa thực hiện.
Phần hai vị trung úy, họ vẫn thực thi công vụ quanh quanh thị xã, lúc thì được điều lên lực lượng hình sự, lúc lại đi làm trưởng phường nào đó. Gặp tôi, họ vẫn chào thân ái, đứng lại nói dăm câu chuyện vặt nhưng chưa một lần nhắc đến câu chuyện trên đây.
Với tôi, vì cũng biết về ký hiệu quân hàm nên lâu lâu lại thấy ve áo của họ có thay đổi. Lạ một nỗi là hai người cũng song song tiến bộ. Cho đến cách nay dăm năm, tôi thấy cả hai đều đeo quân hàm trung tá và từ đó cũng ít gặp họ. Có thể cũng như tôi, cả hai đều đã nghỉ hưu, bình thường như bao công chức khác sau những năm tháng thực thi công vụ theo đúng chức trách của mình.
Cho nên, chiều nay, một chiều chủ nhật đẹp trời, khi mà mùa mưa bão chưa hoàn toàn chấm dứt, kỷ niệm hai mươi lăm năm “duyên kì ngộ” khiến chúng tôi gặp nhau trong đêm bão tố mịt mù ấy, tôi cất bước bách bộ đi tìm nhà của hai viên trung úy cảnh sát “năm xưa”. Và, lạ chưa, tôi vẫn chưa biết đầy đủ danh tính của họ, chỉ biết tên một người là Long, người nữa là Tuấn. Chủ nhật, chắc công an phường vẫn có trực ban, tôi sẽ ghé vào hỏi thăm, cùng ngành, chắc họ biết rõ.
*
Mỗi năm, miền Trung hứng chịu vài cơn bão. Bây giờ nhà tôi đã rất kiên cố, bão lớn, gia đình yên tâm đóng chặt cửa nghỉ ngơi. Giả dụ những lúc ấy có tiếng gõ cửa, rồi xuất hiện hai viên trung úy cầm đèn pin, nói: - “Bọn cháu đến xem hai bác có cần gì không?”, thì cũng cảm động lắm.
Ghi chép của Nguyễn Thế Tường